Thứ Sáu, 6 tháng 12, 2013

TÌNH YÊU ĐẤT NƯỚC QUA BÀI THƠ CƯƠNG THỔ

  của tác giả Nguyễn Đức Dũng - Hội viên Hội VH-NT Quảng Nam.

 đất nước ngàn năm không mỏi cánh tay cung

giáo mác Trường Sơn

cọc nhọn Bạch Đằng

đến trẻ chăn trâu cũng cờ lau tập trận

chiếc roi cày rần rật máu cha ông

 

đất nước sinh ra huyền thoại tiên rồng

bọc trứng trăm con lên rừng xuống biển

mẹ lội suối trèo non

cha bạt ghềnh chắn sóng

mong mai sau lên vóc lên hình

 

đất nước quặn đau con sóng vỗ ru ghềnh

hồn biển động lời vỏ sò vỏ ốc

ta xăm ngực thuồng luồng mò trai lượm ngọc

thân vùi đảo xa

ma đói lạnh trùng khơi

 

đất nước mỗi ngày lên đón ánh mặt trời

thấy dung mạo tiền nhân nhắc lời di huấn

nghe vị nặm mồ hôi thấm đầu sông cuối bãi

vạt cỏ bên đường cũng học để mà xanh

 

đất nước đổi bao xương máu mới bình yên

ta yêu nước là yêu những điều gần gũi nhất

yêu giọt mưa mái tranh

yêu reo cuòi bếp lửa

mẹ từng chiều nhen ấm áp cơm rau

 

đất nước đổi bao xương máu mới bình yên

ta yêu nước là yêu những diều gần gũi nhất

yêu giọt mưa mái tranh

yêu reo  cười bếp lửa

mẹ từng chiều nhen ấm áp cơm rau

 

vẫn biết rằng chưa sang cả đẹp giàu

nhưng ta quý những gì ta có được

ta giữ từng câu hát ru

từng tượng đồng bia đá

từng vạt áo nâu già mẹ cặm cụi ngoài sân

 

có đất nước nào như đất nước ta

lưng gánh mưa nguồn ngực phơi giông bão

mỗi góc ruộng bờ cây là nỗi niềm xương máu

mỗi tên người tên đất cứ rưng rưng

 

đất nước ơi từng chặng tủi mừng

như đứa trẻ lớn lên mỏi mòn cha mẹ

con nhà nghèo lòng thảo thơm từ bé

nghe tiếng gà nhảy ổ cũng nâng niu

 

đất nước ơi cay khói bếp chiều

 đường đánh giặc nhớ mẹ già muốn khóc

 cứ ưng về làm cúi núi rơm thơm

 tóc mẹ bạc còn tro tàn lấm láp

 

đất nước ơi qua mỗi chặn đường

qua mỗi chặn lớn khôn

 nhớ viên bi tuổi thơ sân trường lăn bảy vòng ký ức

thương nhành ổi bên nhà đông đưa bín tóc

 thương cánh diều rủ rê trốn học

 thương câu kiều thầy giảng buổi bình văn

 

 đất nước còn đau giọt lệ quá quan

 gạt bịn rịn thường tình hóa sao khuê Nguyễn Trãi

 đất nước còn buồn tiếng thở dài

 cha từng mùa cấy hái

 cơn nồm nam tàu chối biết se lòng

 

 đất nước nuôi ta thành những anh hùng

ta giữ đất bồn ngàn năm không nghỉ

đất nước dạy ta thành thi sĩ

ta giữ nước bằng nhân hậu bao dung

 

ta giữ đất nước bằng hào khí cha ông

từng thế hệ trao truyền ngọn lửa hồng tim máu

đất nước mến yêu ơi

bốn ngàn năm trang sử không nguôi giờ giông bão

những đàn con lại tiếp bước lên đường…

                              NGUYỄN ĐỨC DŨNG

 

Tiêu đề bài thơ với hai chữ ngắn gọn “CƯƠNG THỔ” nhưng chứa đựng đầy đủ đất nước Việt Nam bao gồm: biên cương, lãnh thổ, lãnh hải, vùng trời, vùng biển thiêng liêng của tổ quốc như một lời khẳng định, tuyên ngôn của vị anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt: “Sông núi nước Nam vua Nam ở/ Rành rành định phận tại sách trời…”.

Đúng như vậy, đất nước Việt Nam với lịch sử bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, bao thế hệ anh hùng, bao người con ưu tú của dân tộc, lớp lớp đã ra đi đánh giặc và trong đó không ít người đã ngã xuống cho sự bình yên, trường tồn của dân tộc, máu xương của ông, cha biết bao nhiêu thế hệ đã chảy để đổi lại độc lập, hòa bình cho tổ quốc thân yêu. Và khổ thơ đầu tác giả viết: đất nước ngàn năm không mỏi cánh tay cung/ giáo mác Trường Sơn/ cọc nhọn Bạch Đằng/ đến trẻ chăn trâu cũng cờ lau tập trận/ chiếc roi cày rần rật máu cha ông. Có phải chăng sự dồn nén lên đến cao trào tác giả mới thốt lên hai tiếng“rần rật”, đây là chất hào khí của dân tộc, của tinh thần sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc khi bị lâm nguy.

Cũng chính trên đất nước ấy đã sinh ra cội nguồn tổ tiên của dân tộc với câu chuyện truyền thuyết đi vào lòng mỗi người con Việt Nam “trăm trứng, trăm con”, được tả thực qua thơ anh: đất nước sinh ra huyền thoại tiên rồng/ bọc trứng trăm con lên rừng xuống biển/ mẹ lội suối trèo non/ cha bạt ghềnh chắn sóng/ mong mai sau lên vóc lên hình.

Đó còn là sự thao thức, trăn trở trước những hiểm họa đang đến gần trên các vùng biển đảo của Tổ quốc thân yêu. Đất nước của chúng ta liên miên trận mạc suốt bao đời, những nỗi đau thương chiến tranh còn ghi dấu nơi rừng sâu, biển thẳm:“thân vùi đảo xa/ ma đói lạnh trùng khơi”. Và qua nhiều thế kỷ, hàng triệu người con ưu tú của dân tộc ta đã dâng hiến tuổi thanh xuân, đã vĩnh viễn nằm xuống vì biển, vì sông như những “con sóng”, “ quặn đau”  vỗ vào “đất nước”. Để rồi tác giả đã hóa thân vào“hồn biển động” nói lên “lời vỏ sò vỏ ốc”- sử dụng nghệ thuật nhân cách hóa rất tinh tế, hài hòa, làm cho câu thơ thêm sâu sắc và truyền cảm trước sự mất mát, đau thương của không biết bao nhiêu người con Việt Nam ở tuyến đầu Tổ quốc. Và ở khổ thơ tiếp theo là lời “di huấn” của các bậc tiền nhân nhắc nhở chúng ta, các thế hệ đi sau không được phép lãng quên quá khứ bi thương nhưng rất hào hùng của dân tộc: đất nước mỗi ngày lên đón ánh mặt trời/ thấy dung mạo tiền nhân nhắc lời di huấn/ nghe vị nặm mồ hôi thấm đầu sông cuối bãi…Và điều hiền hòa bình dị nhất đã làm cho cỏ cây cũng phải xao động vươn lên, hướng tới và hòa quyện vào đất nước: vạt cỏ bên đường cũng học để mà xanh. Tác giả là người rất yêu Tổ quốc và cũng chính tình yêu quê hương, đất nước lại bắt đầu từ yêu những điều giản dị, xung quanh cuộc sống của con người với con người được tái hiện qua thơ: đất nước đổi bao xương máu mới bình yên/ ta yêu nước là yêu những điều gần gũi nhất/ yêu giọt mưa mái tranh/ yêu reo cười bếp lửa/ mẹ từng chiều nhen ấm áp cơm rau.

Tôi còn nhớ: Tổng thống Nga-Pu tin có câu nói rất nổi tiếng với đại ý: Nếu người nào quên quá khứ là người không có trái tim…; phải chăng Nhà thơ Nguyễn Đức Dũng đã luôn canh cánh và dặn lòng mình điều đó:…nhưng ta quý những gì ta có được/ ta giữ từng câu hát ru/ từng tượng đồng bia đá/ từng vạt áo nâu già …

Cũng chính từ yêu và quí những điều nhỏ nhất, nên tác giả mới chuyển tải được vào thơ, để có những vần thơ  rộng hơn, bao quát hơn: có đất nước nào như đất nước ta/ lưng gánh mưa nguồn ngực phơi giông bão. Và có thể khẳng định không ai yêu nước và am tường hơn người Việt Nam,  rồi trang trãi lòng mình: mỗi góc ruộng bờ cây là nỗi niềm xương máu/ mỗi tên người tên đất cứ rưng rưng.

Tác giả là người xuất thân từ “gốc rạ” từng khoát màu xanh áo lính, từng sống trong những năm tháng còn chiến tranh, sớm cảm nhận được những thăng trầm của con đường đi tìm tự do: đất nước ơi từng chặng tủi mừng; bươn chải với cuộc đời mới hiểu sâu sắc giá trị của độc lập - hòa bình và những khó khăn chung của dân tộc trên từng chặng đường đi tới, nên rất quí trọng, hiếu thảo, cảm thông:…con nhà nghèo lòng thảo thơm từ bé/ nghe tiếng gà nhảy ổ cũng nâng niu. Càng khẳng định tình yêu Tổ quốc - đất nước, quê hương và gia đình trong tác giả hòa quyện là một.

Nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc tình yêu đất nước cũng chính từ yêu những điều giản dị. Và hình ảnh đất nước lồng trong hình bóng của người mẹ nhân từ, chịu thương, chịu khó, suốt đời hy sinh cho chồng, cho con được thể hiện mộc mạc, chân chất nhưng sâu lắng qua thơ anh: đất nước ơi cay khói bếp chiều/ đường đánh giặc nhớ mẹ già muốn khóc. Đến câu thơ này ta lại gặp hình ảnh tương tự người chiến binh trong thơ của Hữu Loan: “lấy chồng người chiến binh/ mấy người đi trở lại/ nhớ khi anh không về/ thương người vợ bé bỏng chiều quê”. Người con được sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, thời loạn lạc, phải cầm súng lên đường bỏ lại sau lưng bóng mẹ già không có người phụng dưỡng, niềm thương và nỗi nhớ chạnh lòng thao thức và tác giả thốt lên: cứ ưng về làm cúi núi rơm thơm/ tóc mẹ bạc còn tro tàn lấm láp.

Ký ức tuổi thơ luôn lãng mạn, thân thương và đầy ắp trăn trở, lo toan trong tác giả được tái hiện qua từng con chữ, câu thơ: nhớ viên bi tuổi thơ... lăn bảy vòng ký ức/ thương nhành ổi bên nhà đong đưa bín tóc. Tác giả cho ta thưởng thức một hình ảnh đẹp hồn nhiên với cụm từ bốn chữ trong câu “đong đưa bín tóc”, để rồi có những phút giây say đắm: “…thương cánh diều…câu kiều thầy giảng…”.

Sự bi thương nhưng không bi lụy, được biểu hiện sinh động nhưng mền mại qua thơ anh: …gạt bịn rịn thường tình hóa sao khuê Nguyễn Trãi…Đến đây ta lại gợi nhớ hình ảnh đất nước trong thơ của Nguyễn Đình Thi, “...Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc/ Nguyễn Du viết kiều đất nước hóa thành văn”.

Có điều không phủ nhận được đó là đất nước đã sản sinh ra những anh hùng và những người anh hùng là những Nhà thơ tự nguyện trên trận tuyến: đất nước nuôi ta thành những anh hùng/ ta giữ đất bốn ngàn năm không nghỉ/ đất nước dạy ta thành thi sĩ …

Ở khổ thơ kết tác giả khẳng định đanh thép truyền thống đánh giặc giữ nước của ông cha ta từ bao đời nay.Và truyền thống ấy tiếp tục được các thế hệ đi sau viết tiếp trang sử vẻ vang của dân tộc ta: ta giữ đất nước bằng hào khí cha ông/ từng thế hệ trao truyền ngọn lửa hồng tim máu…

Hai câu thơ kết của tác giả: bốn ngàn năm trang sử không nguôi giờ giông bão/ những đàn con lại tiếp bước lên đường…lại khêu gợi ta nhớ đến “đất nước” của Nguyễn Đình Thi: “đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”. Tuy nhiên, bên cạnh thành công, theo cảm nhận của cá nhân tôi: điểm hạn chế của tác phẩm là bài thơ còn hơi dài, còn nặng kể lể, nếu tác giả viết cô đọng hơn, thì tính thuyết phục của bài thơ sẽ cao hơn…

Toàn bài thơ “CƯƠNG THỔ”, tác giả đã hơn15 lần dùng điệp từ “đất nước”, nhưng khi đọc lên ta vẫn không cảm thấy thừa, điều đó nói lên: tác giả viết bài thơ  với tấm lòng của người con hướng về Tổ quốc thân yêu, với ý thức, trách nhiệm thiêng liêng cao cả. Có lẽ không cần nói thêm gì, tuy bài thơ ra đời chưa lâu nhưng đã đi vào lòng người và khẳng định được vị trí trong tâm thức người dân Quảng Nam và cả nước. Là người lính, tôi cảm nhận sâu sắc bài thơ trên, rất xúc động, tự hào khi được nghe tác giả đọc…càng đọc càng cảm nhận được từng câu, từng ý thơ in sâu vào trong con tim, khối óc với lòng trân trọng, tự hào. Bài thơ như một lời nhắn gửi, nhắc nhở những người con hôm nay được sống trong bình yên, hòa bình không được phép xao lãng nhiệm vụ và trách nhiệm của mình đối với Tổ quốc thân yêu./

                                                                                       Võ Văn Thọ

cảm nhận...

CẢM NHẬN ĐỌC TRUYỆN KÝ “ĐẤT KIM CƯƠNG” CỦA ĐẠI TÁ NHÀ VĂN NGUYỄN VĂN HỒNG
                                                                               Võ Văn Thọ
Thật sự xúc động, khi đọc “Đất Kim Cương”, do Nhà Xuất bản Thanh Niên phát hành đầu năm 2012, gồm 210 trang với 21phần, từng trang viết của các giả - Đại tá Nhà Văn Nguyễn Văn Hồng - nguyên Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 4, Bộ Quốc phòng, nguyên là Sư đoàn trưởng, sư đoàn 309 - Mặt trận 479 trực tiếp chỉ huy chiến đấu tại chiến trường Canpuchia, là chuyên gia Sư đoàn 179 thuộc Quân khu 4 - CPC (người có mặt và chỉ huy chiến đấu ở chiến trường Campuchia từ đầu đến khi kết thúc cuộc chiến) đã tái hiện lại như thật những trận chiến đang diễn ra đầy gai góc, tàn khốc của quân Tình nguyện Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế để giúp nước bạn giải phóng dân tộc thoát khỏi sự diệt chủng của chính quyền Khơ me Đỏ, đã đem lại hòa bình trên đất nước Ăng Ko - Chùa Tháp xinh đẹp.
 Truyện ký tái hiện “cuộc chiến cam go của một trung đoàn bộ binh Tình nguyện Việt Nam …”; “cuộc chiến đấu bảo vệ Pailin, một mục tiêu quan trọng phía Tây tỉnh Bát Tam Băng, campuchia” (trích lời giới thiệu “đất kim cương” của tác giả), thật đúng như lời thơ mở đầu truyện ký:“Ai bảo kim cương trên chốt đất này?/ Chỉ thấy máu hòa cùng máu chảy/ Mỗi bước chân đi gập gềnh chiếc bẫy/ Mìn nổ vang rền thịt nát xương bay/ Kim cương đâu trên mảnh đất này?/ Trên con đường đỏ ngầu máu chảy”(thơ Trần Duy chiến). Cũng trong sự sống, chết trong gang tấc, song những người lính Tình nguyện Việt Nam vẫn coi cái chết “nhẹ tựa lông hồng”, nhưng miễn sao cái chết đó đem lại ý nghĩa lớn lao cho dân tộc Campuchia anh em: “Đời chỉ một lần chết ai ơi/ Chết sao cho xứng với cuộc đời/ Ta phải hiên ngang dù phải chết/ Để người mãi nhớ sử ghi danh”. Cũng cần nói thêm rằng, Trần Duy Chiến, Tiểu đội trưởng thuộc Trung đoàn “Năm Chín Ba” nhân vật xuất sắc trong truyện ký cùng một số đồng chí đồng đội của anh là những người con thân yêu của quê hương “trung dũng kiên cường”, anh được sinh ra ở Hội An, Quảng Nam nơi có thành phố cổ nên thơ, dòng sông Hoài đầy ắp kỷ niệm lãng mạn thời học sinh, với mối tình đầu đầy thơ mộng…song anh đã gác lại tình cảm riêng tư, tình nguyện đến mảnh đất đầy nắng gió với cuộc chiến ác liệt ỏ nước bạn để làm nhiệm vụ quốc tế thiêng liêng, sứ mệnh lịch sử dân tộc đã giao phó cho anh… Và mãi mãi tuổi thanh xuân đẹp nhất của Trần Duy Chiến và những người đồng đội anh “nằm lại” ở chiến trường, sự hy sinh, ra đi cao cả của những người con của quê hương Quảng Nam thân yêu, của của cả dân tộc Việt Nam để đổi lại sự hồi sinh, phát triển của đất nước bạn Campuchia hôm nay.
Đặc biệt ý nghĩa, toàn bộ số sách - truyện ký “Đất Kim Cương” được xuất bản lần này, tác giả sẽ được dùng vào việc “góp đá xây Trường Sa”, đây là một nghĩa cử cao đẹp của người lính, “bộ đội Cụ Hồ” đối với lãnh hải, lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.
Giờ đây, cứ mỗi lần đọc lại những dòng truyện ký “đất kim cương”, là người lính “thời bình” hôm nay càng cảm nhận sâu sắc rằng, chiến tranh đã đi qua hơn 1/3 thế kỷ, song máu xương cha anh ta đã đổ xuống không biết bao nhiêu kể xiết, để đổi lại màu xanh thanh bình trên quê hương Việt Nam cũng như trên đất nước bạn Campuchia anh em.
Xin được nhắc lại câu thơ của Nhà thơ Hồ Thấu: “Chiến trường ai khóc chia phôi/ Khải hoàn ai nhắc đến người hôm qua”…Như một lời nhắn nhủ, tri ân đối với các thế hệ cha anh đi trước.
Ảnh: Bìa tập truyện ký “Đất Kim Cương”- Võ Văn Thọ


cảm xúc ...

CẢM XÚC KHI ĐỌC TẬP THƠ - “LỜI RU LÁ CỎ” CỦA NGUYỄN HẢI TRIỀU

Nhận được tập thơ “LỜI RU LÁ CỎ” của anh Nguyễn Hải Triều do NXB Đà Nẵng ấn hành năm 2012, mà anh ký tặng cho tôi. Thật sự mừng lắm, được anh quan tâm vì biết tôi cũng rất “ghiền” thơ. Tôi cũng rất muốn viết lời tâm sự cảm nhận cá nhân mình, nhưng rồi lại ngại vì không khéo mạo phạm -  Vì là người yêu thơ, tập tành làm thơ, không là nhà văn, nhà thơ mà bình phẩm. Tuy nhiên, trong tận cõi lòng muốn chia sẻ cùng anh…
Những ngày đông về càng đọc thơ anh càng thấy sâu lắng, cảm nhận được như anh đã nói hộ lòng của bao người con đã được sinh ra, sống nơi quê hương có dòng sông thơ mộng…Đúng như lời bạt của Nhà văn, nhà thơ Huỳnh Minh Tâm viết mà tôi rất tâm đắc: “Đọc thơ Nguyễn Hải Triều là đọc, là thọc, là vén những giấc mơ ngọt ngào và đắng đót, mơ mộng và chân thực của một tâm hồn đa cảm, đa đoan, nhưng cũng vô cùng gây cấn, gây hấn. Chính vậy nên thơ anh đầy đặn, tràn trề tựa như dòng Vu Gia của quê hương anh chảy suốt bốn mùa không ngưng nghỉ, không khô cạn, chảy như một lẽ hiển nhiên, chảy cho đỏ au phù sa, chảy cho lên xuân hai bờ cây trái”.
Hải Triều sinh ra trên miền quê nơi có dòng sông Vu Gia thơ mộng, tuổi thơ anh đã gắn bó với sông như một định mệnh được an bày… sông mãi chảy trong anh, trong ý thơ đẹp, lãng mạn và dung dị; sông với anh hòa là một, sông đem phù sa bồi đắp cho bao nhiêu bãi bờ xanh tốt, với dòng nước trong xanh tắm mát cuộc đời, để rồi anh trãi lòng với những suy tư bên dòng sông: “Sông là sông của đời thôi/ Non mòn biển cạn để rồi…bóng tăm/Chỉ là sông phía trăm năm/ Dấu phù du chảy xiết dòng nước xuôi” (Bài lục bát gởi sông). Và chính yêu sông nên tác giả đã hồi nhớ đến một dòng sông mà nơi đó anh đã từng gắn bó!?, có bóng hình thiếu nữ mà anh đã ít nhất một lần phải lòng, dù chỉ mong đợi nụ cười duyên dáng em gởi trao: “Em son phấn tươi nguyên màu thiếu nữ/ Chờ xuân về một đóa cười duyên…”. Hay anh mường tượng, hình dung ra những người con gái dù chỉ một lần được tắm nước sông Tiên cũng sẽ đẹp xinh ra, làm cho anh cũng như “bao gã suy tình” phải xao xuyến: “Con gái tắm sông Tiên da trắng/ Tóc dài xanh thêm vướng víu chân người”, dù biết rằng phải hao hơi, tổn sức vì phải suy nghĩ, có khi đến bạc cả đầu: “Để ta lẻn vào kho trời đất/ Lấy tặng em xuân mãi đến bạc đầu” (Câu gởi một dòng sông). Sự thực thì mái tóc trên đầu anh đã trộn lẫn muối sương với bao suy tư, trăn trở của hơn nửa đời người phiêu bạc… hoặc trong bài thơ Hương anh viết rất có hồn: “Em neo đậu hồn tôi phía dòng sông…/Về với hoang sơ mùi hương của vĩnh hằng”, hoặc ở một bài thơ khác anh viết lời thơ rất đẹp và lãng mạn: “Bỗng nhiên thương nhánh cải vàng/ Câu thơ chín đợi mùa sang chín mùa/ Sông Tiên em chỉ một tôi/ Khúc cô liêu
Một góc trời…
Chờ em…(Tìm ngọn gió xưa)
 Những suy tư, sự trải nghiệm chím mùi đã giúp Hải Triều bật ra những câu thơ lục bát đẹp, mượt mà, trong trẻo, duyên dáng và mềm mại đến mê mẫn lòng người: “Em chiều hong tóc mùa đông/ Áo phơi trên ngọn ngô đồng lá buông…Gởi người câu hát à ơi/ Ai xuôi chi tiếng tơ rơi cuối cùng” (Gởi một người). Suy ngẫm, trăn trở của anh cũng là những suy nghĩ rất thật của cuộc đời, cuộc sống với bao biến cố, sự thay đổi của lòng người, nhưng anh vẫn tự nhủ khi đã yêu thương thì phải trọn lòng, trọn đời: “Dòng đời vạn nẻo đục trong/ Hãy thương cho trọn tấm lòng mà thôi” (Gởi một người). Có thể khẳng định rằng, những người yêu thơ, làm thơ là những người sống nội tâm nhất, sẵn sàng hòa nhịp đập con tim, chia sẻ với mọi người và mọi tấm lòng, tác giả Hải Triều cũng không nằm ngoài qui luật tự nhiên ấy…
Ở một khía cạnh khác, tình yêu quê hương trong thơ anh cũng chính là yêu thiên nhiên, vạn vật, gần giũ, bình dị nhất, đã được lột tả qua thơ anh: “Những sợ khói nấp sau giấc mơ/ Bay dọc cánh đồng ký ức/ Sợi khói lấm lem/ Thơm mùi rơm khô cỏ mục/ Em ra đồng bàn chân xước gió lá non…” (Khói). Nguyễn Hải Triều là người có tấm lòng bao dung, yêu sông, yêu thiên nhiên cây lá và cũng chính anh trăn trở trước sự hung dữ, biến dạng của dòng sông khi “mùa nước nổi”, dòng sông phải oằn mình gánh chịu, để lại những vết thương lòng đau nhói và ám ảnh trong anh: “Cơm lũ đục ngầu mệt mỏi giấc mơ…/ Lũ đã đi qua những bãi biền tơi tả bão giông, bỏ lại hoang liêu cỏ mục ngỗn ngang xác lá vô thường/ Đâu là dòng sông nguyên sơ quẫy đạp ký ức?” (Ký ức giọt sương); chỉ đơn cử một điều “đơn giản” thôi: rất có thể là cô bạn gái của anh ngày xưa mà anh và người ấy từng có nhiều kỷ niệm đẹp, khi cô bước lên xe hoa, anh cũng nặng nợ, đa mang tự trách mình: “Nợ nhau nụ cười tiếng khóc/ Gởi cả hoang vu ngày em bước theo chồng” (Nợ)... Và còn rất nhiều bài thơ hay và tả thực nhưng rất cô đọng, xúc tích, lay cả lòng người (Thơ bốn câu 4; Thơ bốn câu 5; Thơ bốn câu 6; Thơ bốn câu 7…) được anh viết ra bằng chính cảm xúc mộc mạc, chân chất của đời người, tình người mà không phải ai cũng diễn tả được.
Những dòng tâm sự cùng anh không thể nói “cắt nghĩa” đầy đủ những gì anh đã viết bằng cả tim mình…Xin chúc anh có nhiều tác phẩm để đời với cái duyên “bút mực”, đem lại cho cuộc đời, cuộc sống những thi vị riêng như câu thơ ai đó đã viết: Thơ là hơi thở của cuộc sống/ Thơ ra đi từ tim và trở về rung động con tim…Mong anh đồng cảm với dòng suy nghĩ mà tôi mạo muội bọc bạch…
                                                                   Tam Ngọc - Chiều đông 2013                                                                                        Võ Văn Thọ